Đạo và nghệ thuật trong võ thuật
Có lẽ chẳng cần xem xét rằng trong ngành Võ có nghệ thuật hay không. Bởi, trong dòng sinh hoạt thường hằng nghề ngành gì lại chẳng cần, có, hoặc liên quan tới nghệ thuật. Nghệ thuật là chỉ chung những việc làm có tính chuyên môn, đòi hỏi sự giỏi giang, khéo léo, nhằm đưa tới cái hoàn hảo nhất, cái đẹp. Có cả nghệ thuật mua bán, giao tế; nghệ thuật cắm hoa xẻ gỗ; thậm chí nghệ thuật khóc, cười, nghệ thuật nấu một cái … lẩu lươn kia mà. Điều cần bàn ở đây là vai trò của nghệ thuật trong Đạo và nghệ thuật của Võ như thế nào.
Trong Đại Nam Quốc Âm tự vị, khi định nghĩa chữ võ, Huỳnh Tịnh Của có ghi: “Coi chữ Vũ” (QATV quyển hạ, trang 555, cột Phải). Khi định nghĩa chữ Vũ, tác giả lại ghi: “Coi chữ Võ” (QATV quyển hạ, trang 562, cột Phải). Hán tự, khi ta phát ra quốc âm có những chữ đọc trại đi, thành dị âm đồng nghĩa (những cặp Huỳnh – Hoàng, Nghinh – Nghênh, Giái – Giới, .v.v..). Chữ Vũ được đọc ra chữ Võ (Võ thuật hay Vũ thuật). Nhưng Võ đây có định nghĩa rõ ràng trong hầu hết các từ điển là: “Luyện gân cốt, nghề chiến đấu” (QATV – Huỳnh Tịnh Của); là: “Thuộc về dùng sức, dùng quân đội” (Tự điển Việt Nam, Ban Tu Thư Khai Trí – 1971 – trang 922); là: “Chỉ chung việc làm dựa trên sức mạnh – chỉ việc quân sự” (Hán – Việt Tân tự điển Nguyễn Quốc Hùng, trang 796); là: “Art of fighting – nghệ thuật chiến đấu” (Vietnamese English dictionary, Bùi Phụng – trang 947).
Vậy, Võ (Vũ) không có ý nghĩa múa (Dance). Tuy nhiên về mặt ngoại hình, Vũ (múa) không có nội dung võ, nhưng võ lại có sự biểu trưng của múa, vờn. Do vậy từ lâu trong dân gian, trừ những lúc thượng đài (đấu võ), hoặc đang tranh đấu với ai đó (đánh võ), người ta gọi luôn là múa võ, múa quyền. Ngay cả khi có trang bị vật dụng binh khí, võ cụ, cũng gọi là múa roi, múa kiếm, múa gậy … Như vậy, trong một chừng mực nào đó, võ có cách múa. Chính điểm này, võ có khả năng trình diễn như một nghệ thuật thể hình.
Trong quan hệ xã hội người, lúc hãy còn thiếu từ ngữ (hoặc trường hợp dị ngôn) thoạt kỳ thủy con người phải ra dấu, thay tiếng, bằng mắt, miệng, tay, chân. Bằng vào ý nghĩa ngôn tự, vào sắc thái tình cảm, mà sự ra dấu khác nhau. Lúc hạnh phúc, mừng rỡ, tán đồng, người ta vui vẻ bắt tay, ôm nhau, vỗ tay; thậm chí vờn múa hả hê. Vạn vật cũng có cách múa của nó khi vui vầy: con công xòe đôi cánh, chó vẫy đuôi, bầy én chao liệng mùa xuân, chim đá cá trừng. Một khi bất đồng, phản kháng, giận dữ, con người có sự chỉ trỏ, xô đẩy, thủ thế, những sinh vật khác cũng không ngoài qui luật tự vệ, sinh tồn, nên chó, mèo, cọp, khỉ mỗi loài đều có mỗi thế “võ” của chúng. Tóm lại, võ là khoa học về phương pháp tự vệ, hoặc tấn công kẻ khác bằng sức mạnh, hay phương tiện tạo ra sức mạnh. Có sức mạnh thì có sự tàn phá. Để hạn chế sự tàn phá của Võ, đã có Đạo.
Võ không chỉ có kim chỉ nam là Đạo, mà cần có cái Nền, là Thuật. Thuật đây gồm kỹ, mỹ và nghệ thuật. Kỹ thuật là cái kỹ năng, là phần khoa học trong trong lãnh vực dạy võ, học võ, hành võ; là phương pháp xử lý sao cho chính xác, đạt hiệu quả cao nhất trong hoàn cảnh. Mỹ thuật là tinh thần thượng võ, cái nhân bản sáng tỏa bên trong, và thể hình sức lực bên ngoài. Người lực sĩ, võ sĩ, trước tiên phải đẹp từ trong cốt cách tinh thần mới ra ngoài hành động; từ cuộc sống bình thường tới lúc thượng võ đài. Chính cái đẹp bên trong chủ đạo cái đẹp hành động bên ngoài. Tổng thể thẩm mỹ này có ý nghĩa bảo chứng cho sức sống của Võ.
Vậy nghệ thuật ẩn tàng chỗ nào trong võ? Đó là sự hòa quyện, kết tinh giữa kỹ thuật và mỹ thuật để tạo khởi một nội dung thuần khiết, đưa tiến trình hành động tới chỗ cao hơn, hoàn chỉnh; đẩy tới chỗ phần hữu hình của Đạo. Kỹ thuật là phần nâng cao, làm rộng sức mạnh. Nghệ thuật là phần tinh túy của võ. Nghệ thuật càng thâm sâu, càng huyền nhiệm, thực tế của võ càng đơn giản, nhưng tinh vi huyền ảo; thậm chí gọi rằng “vô chiêu”. Lúc ấy, sử dụng không khí, hóa gió, khiển mây, dùng thanh thay lực; sử dụng những thành phần ấy như từng sử dụng binh khí.
Để giải thích chỗ này, có người bảo rằng võ thuật Đông Phương có nền móng trong cái nôi của nền văn hóa Tâm Thức. Cái Tâm và cái Thức ấy nằm trong ba dòng nguồn cội: Phật, Lão, Khổng. Nó thể hiện trọn vẹn, dứt khoát sự Xuất Nhập; hoặc giả nhập mà man mác như xuất, xuất mà hiện hữu như nhập. Cho nên, võ thuật đã mang không ít tính siêu nhiên và ý nghĩa siêu hình. Võ sư có khi là Đạo sĩ, Thiền giả. Võ nghệ cao cường lại sản sinh trong chùa chiền. Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Võ là hiện thực của đấu tranh, lắm khi lại nhuộm màu Lão Trang, nên nghệ thuật Sống, trong Võ, rất thênh thang cao khiết. Hành trình của võ thuật Đông Phương không thông qua – nếu không muốn nói là phó mặc – cái gọi là khoa học duy lý, mà là Tâm Đạo. Có người hành võ mà tầm ra đạo, đi từ bên này bến mê sang được bờ giác bên kia, thông qua đại ngộ.
Từ tâm thức ảo diệu trên, chúng ta khó tìm thấy môn võ xuất hiện ở phương Đông có lối đánh hùng hục như Boxe, cho dù đó là những môn võ “son trẻ” được hiện đại hóa, kết hợp Đông Tây như Nhu Đạo, Karatedo, Thái Cực Đạo, Vovinam … Võ Phương Đông nói chung, và Việt Nam nói riêng, có những đặc trưng sau đây – cũng là nội dung nghệ thuật – là: lấy nhu trị cương, dứt khoát mà tinh tế; hoành mà tung, kinh mà quyền (hay ngược đảo lại); cái hiểm ẩn tàng trong sự uyển chuyển; vẻ đẹp thể hiện trong bước quyền, cước; chỗ thượng thừa thì tâm, linh, trí, lực quyện làm một; và khả năng đích thực của Võ Thuật là đưa tới sự chinh phục, hoàn thiện một hoàn cảnh hay một tình thế, hơn là có ý nghĩa triệt hạ, tàn sát.
Nghệ thuật trong võ thuật có tác dụng gạn lọc, loại bỏ những hành vi thô bạo, thế tục, vụ lợi. Do quan niệm khắt khe – và do cái thực tế không kém phần thô bạo của một số võ quan, võ sĩ – mà ngày xưa ông bà ta có trọng văn khinh võ; xem con nhà võ là thành phần tổng hợp bởi những cơ bắp, dọa dẫm kẻ yếu bằng những thứ binh khí rổn rảng chốn võ biền.
Ngày nay quan niệm trọng văn khinh võ đã trở nên xa lạ, trong một xã hội mong muốn hòa bình, nhưng mỗi con người phải có khả năng chinh phục, và không dễ dàng bị chinh phục. Võ thuật đã là một khoa học của sức mạnh mang tính nhân văn. Do nhu cầu sinh hoạt của con người mà có, vậy võ thuật sẽ được cải tiến, tồn tại mãi cùng với những sinh hoạt hữu ích khác. Mỗi cá nhân được may mắn tiếp cận với võ thuật, là con nhà võ, nếu cố gắng tu luyện, sẽ đạt tới chỗ lành mạnh, cân bằng, điều hòa tâm, sinh, thể, trí. Ở chừng mực nào đó, võ thuật có vai trò làm sáng tỏ, chứng minh rằng xã hội con người hãy còn tồn tại lòng vị tha bác ái, đức tính dũng cảm, chân thật.
Nghệ thuật nào cũng có một mục đích duy nhất là phục vụ cho Nghệ thuật Sống. Mà nghệ thuật sống, có một ý nghĩa tích cực và triệt để, là làm sao cho mỗi cá nhân trong mỗi xã hội càng ngày càng tiến tới hoàn chỉnh chất Người. Mong rằng trong đó có đóng góp của võ thuật, một nghệ thuật của khoa học sức mạnh, khác với thế giới chữ nghĩa, nhưng hoàn toàn không đối lập, mà đầy đậm bản chất nhân văn.
Cung Tích Biền